Xây dựng làng nông nghiệp ứng phó BĐKH, phát triển bền vững trên vùng cao Tây Bắc

0:00 / 0:00
0:00
TPO - Từ mô hình canh tác nhỏ lẻ, hiệu quả thấp, nhờ mô hình làng nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu, 6 bản làng ở Lai Châu và Sơn La đã chuyển đổi thành công mô hình sản xuất nông nghiệp thông minh, gắn với mở rộng thị trường, phát triển kinh tế.

Từ năm 2019, Dự án Tăng cường tiếng nói và năng lực của nhóm nông dân người dân tộc dễ bị tổn thương đối với biến đổi khí hậu ở Tây Bắc Việt Nam (VOF) được triển khai tại hai tỉnh Sơn La và Lai Châu nhằm hướng tới hỗ trợ đồng bào người dân tộc tăng cường khả năng phục hồi trước tác động của biến đối khí hậu thông qua việc thúc đẩy nông nghiệp thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu và sự tham gia của người dân trong quá trình ra quyết định.

Trọng tâm của Dự án là thử nghiệm xây dựng mô hình Làng nông nghiệp ứng phó với biến đổi khí hậu ở tại 6 thôn bản của 6 huyện thuộc 2 tỉnh Sơn La và Lai Châu. Tại mỗi làng sẽ hình thành nên những nhóm nông dân nòng cốt, tham gia vào quá trình lập kế hoạch sản xuất nông nghiệp, áp dụng các kỹ thuật canh tác mới, hướng tới thị trường nông sản sạch, giá trị kinh tế cao.

Không chỉ đảm bảo năng suất và nâng cao thu nhập, hướng đi này còn góp phần thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.

Xây dựng làng nông nghiệp ứng phó BĐKH, phát triển bền vững trên vùng cao Tây Bắc ảnh 1

Mô hình được triển khai thực tế tại 6 bản làng ở hai tỉnh Lai Châu và Sơn La.

Một ví dụ điển hình là ở bản Hợp 1 (xã Bản Lang, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu). Tại đây, lúa nếp tan là loại cây có nhiều tiềm năng về thị trường do đây là một trong những đặc sản nông nghiệp của vùng Phong Thổ.

Tuy nhiên, phương pháp canh tác truyền thống chưa thực sự tối ưu, lại chịu ảnh hưởng từ các hiện tượng khí hậu cực đoan và cũng đồng thời gây ra phát thải khí nhà kính.

Chỉ sau hơn một năm học tập để chuyển đổi sang kỹ thuật SRI, từ 5 ha đầu tiên, các nông dân trong Nhóm không chỉ thu về năng suất cao, chất lượng hạt tốt mà còn làm giảm đáng kể các tác động tiêu cực tới môi trường.

Kết quả khả quan từ mô hình của Nhóm đã thu hút nhiều nông dân khác trong bản cùng tham gia, nâng tổng diện tích lúa nếp tan áp dụng phương pháp mới lên 30 ha và số lượng thành viên Nhóm lên 38 hộ gia đình từ năm 2021. Nhóm cũng thành công ký kết hợp tác cùng Công ty TNHH MTV Giống Vật tư Nông nghiệp Tây Bắc để thúc đẩy sản phẩm tiếp cận thị trường.

“Mấy năm trước, một sào hết hẳn 5 cân giống mà thu hoạch về không được nhiều mà lại tốn công cấy. Giờ cấy theo phương pháp mới, chỉ mất 3 cân giống là được một sào. Thế là vừa ít mất giống, lại ít mất công. Chủ yếu là cấy được nhanh hơn. Như ruộng nhà tôi trước đây, 29, 30 người cấy một ngày không xong. Ba năm nay cấy theo phương pháp SRI này là tôi chỉ cần 10 người cấy trong một buổi. Mình cấy thưa thì làm cỏ cũng dễ, cây lúa cũng đẹp, bông to, hạt to và năng suất hơn. Nói chung là từ khi tham gia mô hình, bà con được nhiều cái lợi. Ruộng lúa phát triển, bà con cũng đủ ăn, hàng năm không phải đói nữa, lại lợi cho cả bản vì không ô nhiễm môi trường” - Ông Vàng Văn Chẻo, trưởng nhóm Nông dân ứng phó BĐKH tại bản Hợp 1 (xã Bản Lang, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu) chia sẻ tại Hội thảo.

Xây dựng làng nông nghiệp ứng phó BĐKH, phát triển bền vững trên vùng cao Tây Bắc ảnh 2
Ông Vàng Văn Chẻo, trưởng nhóm Nông dân ứng phó BĐKH tại bản Hợp 1 (xã Bản Lang, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu).

Ông Mùa A Trừ, Chủ tịch Hội nông dân tỉnh Lai Châu chia sẻ: “Các hoạt động của dự án đã từng bước tác động làm thay đổi nhận thức của bà con (đặc biệt là các thành viên của nhóm nông dân thích ứng) về ý thức bảo vệ môi trường, về thói quen lạm dụng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật. Phổ biến được phương pháp ủ phân hữu cơ từ phụ phẩm nông nghiệp, tránh hiện tượng đốt rơm rạ tại đồng ruộng gây ô nhiễm môi trường. Phổ biến được kỹ thuật canh tác lúa cải tiến SRI tại xã Bản Lang từ 30ha lên 150ha đồng thời xây dựng thương hiệu OCCOP 3 sao; các tiêu chí sản xuất chè theo tiêu chuẩn châu Âu, hỗ trợ người dân thành thị, đưa các sản phẩm nông nghiệp ra thị trường.”

Chia sẻ về kết quả Dự án tại Sơn La, ông Cầm Văn Minh, Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Sơn La, cho hay, dự án đã góp phần tăng cường vai trò của người dân trong xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương (chuyển đổi diện tích cây nông nghiệp ngắn ngày không hiệu quả trên đất dốc sang trồng cây ăn quả theo mô hình nông lâm kết hợp; đề xuất lồng ghép vấn đề định hướng sản xuất cây ăn quả theo tiêu chuẩn VietGap vào kế hoạch của bản, xã).

Các hoạt động của dự án cũng từng bước tác động làm thay đổi nhận thức của người dân về ý thức bảo vệ môi trường trong sản xuất, chăn nuôi và nắm được các kiến thức về trồng cây ăn quả theo mô hình nông lâm kết hợp; nuôi bò thịt và bò đực giống; ủ thức ăn cho gia súc; ủ phân từ phân thải chăn nuôi và phế phẩm nông nghiệp.

Dự án cũng phổ biến được kỹ thuật canh tác lúa cải tiến SRI, hỗ trợ người dân tiếp thị, đưa các sản phẩm nghiệp ra thị trường.

Ông Nguyễn Đức Tố Lưu, Điều phối viên dự án cho rằng, làng nông nghiệp ứng phó là mô hình nhằm tập hợp và phát huy năng lực tập thể của cộng đồng người nông dân trước những thách thức của thời tiết khí hậu, của yêu cầu thị trường và của các chủ trương chính sách trong nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Sự hợp lực của người nông dân cùng với cách tiếp cận linh hoạt, tổng hợp làm nên sức mạnh của mô hình này. Mô hình làng nông nghiệp lấy người nông dân làm trung tâm đáng được nhân rộng và lan tỏa tới nhiều địa phương và nhiều lĩnh vực hơn nữa.

MỚI - NÓNG