Hiện nay, Căn cước công dân gắn chip là giấy tờ chứng minh nhân thân quan trọng không thể thiếu cấp cho người từ đủ 14 tuổi trở lên.
Điều 21 Luật Căn cước công dân nêu rõ: Thẻ Căn cước công dân phải được đổi khi công dân đủ 25 tuổi, đủ 40 tuổi và đủ 60 tuổi. Theo đó, sang năm 2023, những người thuộc độ tuổi phải đổi thẻ Căn cước công dân là người sinh vào một trong các năm 1998, 1983 và 1963.
Tuy nhiên, Luật Căn cước công dân cũng quy định: Thẻ Căn cước công dân được cấp trong thời hạn 2 năm trước tuổi quy định thì vẫn có giá trị sử dụng đến tuổi đổi thẻ tiếp theo.
Như vậy, người sinh vào một trong các năm 1998, 1983 và 1963 mà đã đổi thẻ Căn cước công dân mới từ năm 2021 trở đi thì vẫn tiếp tục sử dụng thẻ này đến độ tuổi phải đổi thẻ tiếp theo.
Trường hợp sinh vào các năm 1998, 1983, 1963 mà còn sử dụng Căn cước công dân cấp từ năm 2021 trở về trước thì bắt buộc làm lại Căn cước công dân ngay trong năm 2023.
(Ảnh minh hoạ từ Internet) |
Ngoài trường hợp trên, những người hiện nay đang sử dụng Chứng minh nhân dân làm từ năm 2008 trở về trước cũng cần chú ý đi làm Căn cước công dân ngay. Bởi lẽ, giấy Chứng minh nhân dân chỉ có giá trị sử dụng trong 15 năm kể từ ngày cấp theo quy định tại Điều 2 Nghị định 05/1999/NĐ-CP.
Các trường hợp bắt buộc làm Căn cước công dân gắn chip khác là:
- Thẻ Căn cước công dân/ Chứng minh nhân dân đang sử dụng bị hư hỏng không sử dụng được;
- Thay đổi thông tin về họ tên, ngày tháng năm sinh, đặc điểm nhận dạng;
- Xác định lại quê quán, giới tính;
- Có sai sót về thông tin trên thẻ Căn cước công dân;
- Người dùng Chứng minh nhân dân thay đổi nơi đăng ký hộ khẩu thường trú ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Bị mất thẻ Căn cước công dân, mất giấy Chứng minh nhân dân;
- Được trở lại quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật quốc tịch Việt Nam.
(Căn cứ Điều 21, 23 Luật Căn cước công và Điều 5 Nghị định 05/1999/NĐ-CP)
Công dân phải thực hiện đúng quy định của pháp luật về việc sử dụng và cấp lại thẻ Căn cước công dân, nếu vi phạm có thể sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 - 500.000 đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Nghị định 144/2021.